Người Thủ đô vốn chỉ quen với Ô Quan Chưởng, nhưng sử sách ghi xưa kia thành phố này từng có đến 21 cửa. Kiến trúc cửa ô tầm thường là cửa vòm và lầu gác bên trên, hoặc chỉ có nhị trụ cùng cánh cổng gỗ thành lập tham gia.
Khi người Pháp bắt đầu xây dựng đô thị Thủ đô, họ đã phổ quát lần nhắc đến bức lũy Đại La xây năm 1749 để xác định giới hạn quy ước của đô thị Thủ đô. Lá thư của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Đốc lý Hà Nội ngày 30/12/1889 đã thể hiện sự quan trọng: “Bức lũy cũ phải được coi như giới hạn của thành phố”.
Dãy lũy đất xen kẽ xây gạch này tương ứng với các con phố vành I ngày nay. Chúng cũng là những con đê cao hơn xã xung quanh, nhưng nay đã bị bạt đi khá nhiều như: È Khát Chân, Đại Cồ Việt, La Thành, Giảng Võ, Ngọc Hà, Hoàng Hoa Thám… với tổng chiều dài 16 km. Các cửa ô qua dãy lũy này có vai trò quan trọng để các nhà quy hoạch xác định hướng liên lạc chính và vùng dân cư, cùng lúc biến thành nét đặc thù của Thủ đô.
Thiết kế cửa ô biểu thị trên phiên bản đồ Hà Nội 1885.
Phổ thông thành phố vn có thành quách, vòng la thành với các cổng tham gia, nhưng chỉ Thủ đô mới gọi là cửa ô. Trong Đại Việt Sử ký toàn thư, lần ghi kiếm được về các cửa ô sớm nhất là năm 1308, khi Nai lưng Anh Tông trị tội "những kẻ đại nghịch": "Mùa đông, tháng 11, trị tội những kẻ đại nghịch là số đông tên Hân. Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu, tên Trù ở cửa thành chợ Dừa, tên Tổng ở cửa thành Tây Dương, tên Dung ở cửa thành Vạn Xuân". Cửa thành chợ Dừa tức Ô Mini Dừa, cửa thành Tây Dương tức Ô Cầu Giấy, cửa thành Vạn Xuân tức Ô Đống Mác.
Dĩ nhiên, tên gọi “cửa ô” mới được dùng trong khoảng sau khi chúa Trịnh Doanh đắp lại vòng tường thành dài 16 km năm 1749, trên cơ sở vật chất bức tường lũy thời Mạc. Một số văn phiên bản chữ Hán đã sử dụng trong khoảng “ổ môn” để gọi các cửa ô, với chữ “ổ” nghĩa là lũy, ụ. Trong Hoàng Lê nhất thống chí, từ này đã được sử dụng khi thuật việc Trịnh Khải thua trận trước Nguyễn Huệ năm Bính Ngọ 1786, chạy khỏi đế kinh qua ngả “cửa ô Yên ổn Hoa”.
Các văn bản địa chí nói đến cửa ô như Bắc thành dư địa chí (thời Minh Mạng), Hà Nội địa dư (thời Tự Đức), Phương Đình dư địa chí loại (năm 1882, khắc in năm 1900), Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ (1956) đều xác định Hà Nội có 21 cửa ô. “Tới năm Kỷ Tỵ 1749 đời Cảnh Hưng, cho rằng Kinh sư vốn là vùng đất cơ bản, bá quan lục quân đều đóng ở đấy, vậy mà bốn phía hở thông thống chẳng có thành lũy gì che chắn, bèn lệnh cho dân ở các huyện ven kinh kỳ khởi công đắp thành, thành lập ra 8 cổng và các cửa ô tả hữu rồi chia quân lính tới túc trực canh phòng. Hiện giờ thành ấy còn lại di chỉ dài 7762 tầm, với 21 cửa ô”, sách cũ đánh dấu.
Về cơ chế, các cửa ô căn bản có nhị loại: loại cửa vòm và lầu gác bên trên (có thể xây thành lối tam quan như Ô Quan Chưởng) và loại chỉ có nhị trụ biểu cùng nhì cánh cổng gỗ mở vào.
Thiết kế cửa ô thể hiện trên phiên bản đồ Thủ đô 1885.
Trong khoảng 21 cửa ô, còn lại bao nhiêu?
Mặc dù các văn bạn dạng nêu trên đều nói có 21 cửa ô, nhưng thống kê từ các nguồn cũng như phiên bản đồ, các nhà tìm hiểu xác định được 18 cửa ô và địa điểm của 17 cửa. Trên bản đồ tỉnh thành Thủ đô 1831 có tên Hoài Đức phủ toàn đồ do Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến vẽ được thông báo mới đây, từng được Nai lưng Huy Bá vẽ lại và ghi chú bằng quốc ngữ năm 1956, thì gồm 16 cửa ô.
Theo một cuốn sách khác, Thăng Long cổ tích khảo, lưu tại Viện Hán Nôm, thì có thêm hai cửa ô nữa là Trung Liệt (Ông Tượng) và Nhân Hòa (Hàng Dê). Từ bạn dạng đồ 1866 đời Tự Đức thì chỉ còn 15 cửa ô, con số này lặp lại trên bạn dạng đồ Hà Nội 1885 do người Pháp lập năm 1902, và được ghi chú chữ quốc ngữ.
Cũng năm này, tấm bạn dạng đồ do Phạm Đình Bách vẽ lại trạng thái năm 1873 có danh sách 15 cửa ô bằng song ngữ và tấn công số. Năm 1890, tấm bạn dạng đồ bằng tiếng Pháp còn ghi lại vài cửa ô sót lại như Porte Mandarine (Ô Đồng Lầm), Porte du Roi (Ô Cơ sở Dừa), Porte de Sontay (Ô Cầu Giấy), Porte de Hué (Ô Cầu Dền). Cùng với Ô Quan Chưởng, đây là số ít địa danh có chữ “Ô” còn được dùng hiện tại.
Việc các cửa ô đổi tên đa dạng lần, nhà tìm hiểu Nguyễn Vinh Phúc lý giải do chính các làng có cửa ô bị đổi tên. Do hay thay đổi hiện ra khó khăn nhớ, dễ lẫn nên người địa phương thường gọi bằng các tên nôm như Ô Hàng Đậu, Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác… và thực tại cũng là những cái tên còn lại dài lâu về sau.
Trong cuốn Thủ đô 1873-1888, André Masson đã tập thích hợp các nguồn lưu trữ để chỉ ra có 16 cửa ô. “Điểm khiến Thủ đô 1873 khác với Hà Nội hiện nay (1929) trước tiên là ở những nhà cửa bảo kê của nó. Đó là những tường vây hoặc các cổng chia cắt bé xíu các phường ra. Khu sắm sửa được bảo vệ bằng rộng rãi cổng, trong đó hiện nay chỉ còn cổng Jean Dupuis (tức cửa Ô Quan Chưởng). Cổng này có nguy cơ bị phá vào năm 1906 nhưng may mắn được trường Viễn Đông Bác Cũ rích cứu thoát. Theo ghi chép, cổng được xây dựng năm 1749 để phòng ngự kinh kì ở mặt sông Hồng trước sự nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu”.
Sơ đồ thành ngoài (Đại La) của thị thành Thủ đô năm 1831 trên hạ tầng phiên bản vẽ của Trần Huy Bá với các cửa ô. Các cửa ô dồn vào một chỗ phổ thông ở mặt sông Hồng do kiêm tính năng cửa khẩu mua sắm.
Ở tường phía trái cửa chính Ô Quan Chưởng có gắn tấm bia do tổng đốc Hà-Ninh Hoàng Diệu cho khắc, đề năm Tự Đức thứ 34 (1881) cấm bộ đội gác sách nhiễu người hỗ tương, có tên là “Thân cấm khử tệ”.
So sánh các bạn dạng đồ, có thể xác định ra vài điểm dễ gây nhầm lẫn, Chẳng hạn ô Cầu Giấy không nằm ở chỗ Cầu Giấy bắc qua sông Tô Lịch hiện nay mà ở thị trấn Thanh Bảo, gần đầu xã Nguyễn Thái Học và chợ Ngọc Hà, cho nên cũng manh tên ô Thanh Bảo hay Vạn Bảo.
Dù rằng bức tường đất vòng quanh quéo Thủ đô được đắp với tác dụng ngăn phòng ngừa giặc giã, quân nổi loạn, nhưng thực tế lại để dọa người lành, chứng cứ là văn bia năm 1881 đã nhắc đến tệ sách nhiễu vốn tồn tại trước đó. Khi quân Pháp tiến công Thủ đô nhị lần, những cửa ô không có tính năng chặn được đại bác hay sự phá hủy của thực dân.
Theo thời điểm, các cửa ô mất dần ý nghĩa thành trì, thây mặt cho kiểm soát quyền lực của thể dè bỉu mà chuyển thành địa danh tập thể, tựa như cổng làng thân thuộc khắp các miền quê. Vừa là một phần của thành lũy, lại vừa là tang chứng của phố phố, cửa ô xứng đáng là biểu tượng trọn vẹn của thành phố Thủ đô.
Xem nhiều hơn: Máy bơm ly tâm giá rẻ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét