(Xây đắp) - Kiến trúc là nghệ thuật vị nhân sinh, tính xã hội của kiến trúc là ở đó. Và, nghĩa vụ cao cả của KTS với thị trấn hội trong đó có người khuyết tật cũng là ở đó. Nhưng bây chừ, rất ít tòa tháp kiến trúc do KTS thông minh nên hướng tới và dịch vụ người khuyết tật. Đây là điều rất đáng nghĩ suy.
Trên quả đât, người khuyết tật (NKT) chiếm giữ một tỷ trọng tương đối lớn. Theo báo cáo của đơn vị dân số quả đât của Liên Phù hợp Quốc, thì hiện giờ có khoảng 700 triệu tới 1 tỷ NKT chiếm tỷ lệ từ 10 - 15% dân số thế giới. Còn ở Việt Nam, tỷ lệ NKT vào khoảng trong khoảng 5 - 10% dân số cả nước, tức tham gia khoảng hơn 6,5 triệu người. Kiếm được thấy vai trò và sự tác động của NKT đối với phố hội, nên ngày 13/12/2006, tại New York (Mỹ), Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ưng chuẩn Công ước quốc tế về các quyền của NKT (CRBD) trên hạ tầng Tuyên ngôn Toàn cầu nhân quyền, và Công ước này có hiệu lực từ ngày 03/5/2008. vn là nước thứ 118 trên tổng số hơn 150 nước tham gia ký Công ước này. Ngày 28/11/2014, Quốc hội khóa XII đã phê chuẩn Công ước với tỷ trọng đống ý 100%. Trước đó, năm 1998, Pháp lệnh về NKT đã được Quốc hội khóa V thông qua và ngày 17/6/2010 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã duyệt y Luật NKT và có hiệu lực từ 01/01/2011. Điểm qua một số nét như vậy để thấy NKT ở vietnam đã được Nhà nước ta rất nhiệt tình và sự đon đả đó đã bộc lộ bằng quy định.
Hiện nay, cái nhìn của tập thể, của phường hội đối với NKT đã có phổ biến đổi mới, nhưng chẳng phải lúc nào, ở đâu, NKT cũng được tạo vấn đề kiện tốt nhất để họ hòa nhập tiện lợi với xã hội. Luật NKT của Việt Nam hay Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của NKT đã đề cao vai trò, quyền của NKT trong phố hội. Nó khiến cho đổi mới tư duy, nhận thức của số đông vốn thường coi NKT như một bộ phận yếu thế, cần sự giúp đỡ của y tế, giáo dục… là đối tượng hướng đến của hoạt động trong khoảng thiện, bằng bí quyết xác lập phương pháp tiếp cận của xã hội với NKT theo hướng nhân đạo và nhân quyền. Trong ngành nghề xây đắp, chúng ta cũng đã có những quy chuẩn, tiêu chuẩn chi tiết yêu cầu khi thiết kế, xây dựng công trình để thuận tiện cho NKT dùng. Luật Xây dựng cũng đề cập tới vấn đề kiến trúc nhà cửa phải bảo đảm cho NKT tái hòa nhập với đồng đội. Chả hạn như, lòng đường, lối lên các hội sở, tòa tháp thương mại, công cộng, nhà ở đều phải có độ dốc thích hợp cho việc dùng xe lăn, trang bị trong phòng tắm, nhà vệ sinh phải bố trí phù hợp để NKT dùng dễ ợt và an ninh… Đó là những luật pháp có tính pháp lý bộc lộ tính nhân văn và trách nhiệm thị trấn hội đối với NKT của lĩnh vực Xây dựng trong đó có các KTS. Dĩ nhiên, trong khoảng những văn bạn dạng, pháp luật tới thực tiễn cuộc sống lại là cả một yếu tố khác. Không dễ nhìn thấy, trong muôn ngàn tòa tháp kiến trúc tân tiến, to lớn đã và đang mọc lên ngày càng nhiều trong các đô thị lớn như Thủ đô, TP.HCM hỏi có bao lăm công trình bảo đảm hoạt động cho NKT? Đã có nhà đất nào kể cả nhà đất phố hội, được kiến tạo hướng đến cuộc sống của NKT? Phổ quát bến xe hầu như thường có lối lên xuống tiện lợi cho sinh viên, sinh viên là NKT. Trong hoạt động giao thông công cộng, rất ít ô tô buýt có trang bị nâng hạ bậc lên xuống cho xe lăn, cho NKT khi tham gia giao thông. Ngay cả lòng phố, môi trường dành cho hoạt động đi bộ cũng bị xâm chiếm không còn chỗ cho xe lăn và an toàn cho NKT. Trong các Trường tập huấn KTS, hầu như vắng bóng giáo trình giảng dạy thiết kế cho NKT. Giả dụ có, chỉ là những vấn đề có tính để ý, thoáng qua. Hồ hết các đồ án ra trường của sinh viên kiến trúc đều không hướng đến NKT.
Kiến trúc là nghệ thuật thông minh môi trường sống cho loài người, từ ngôi nhà, bệnh viện, nhà thờ, nhà thờ… cho tới một khu thị trấn, một thị trấn, một vùng cương vực. Kiến trúc là nghệ thuật vị nhân sinh. Tính phố hội của kiến trúc là ở đó. Và nghĩa vụ cừ khôi của KTS với phường hội trong đó có NKT cũng là ở đó. Nhưng hiện thời, rất ít nhà cửa kiến trúc do KTS sáng tạo nên hướng đến và dịch vụ NKT. Đây là một điều rất đáng suy nghĩ. NKT là những người thiệt thòi nhất (dù bất cứ trường thích hợp nào, kể cả là thương binh), khó khăn nhất trong tiếp xúc với học tập, trong hòa đồng phường hội, trong việc làm cho và tái hòa nhập tập thể. Chính vì thế NKT là những người nghèo nhất, dễ thương tổn nhất tróng số người có điều kiện kinh tế eo hẹp của phố hội. Sự nhiệt tình của phố hội đối với NKT ở vietnam đã có phần đông cải thiện. NKT cũng đã liên minh, dựa dẫm vào nhau để vươn lên làm cho chủ cuộc sống và thoát nghèo. Hồ hết gương tiêu biểu của NKT hiện ra trong công trạng, trong thể thao và hoạt động nghệ thuật khiến xã hội cảm phục. Vận khích lệ Việt Nam đã đem lại quang vinh cho Nước nhà tại các kỳ Olympic sport quả đât và khu vực dành cho NKT. Mới đây, tại Paralympic Rio 2016 tổ chức tại Brazil, bằng ý chí vươn lên mãnh liệt, bằng nghị lực phi thường và cả niềm tự hào, các vận động viên là NKT như Lê Văn Công (Huy chương Quà), Võ Thanh Tùng, Cao Ngọc Hùng, Đinh Thị Linh Phương (Huy chương Bạc)… đã mang lại niềm tự hào cho Non sông, mà không phải người chung nào cũng khiến được.
Tôi nhớ tới câu nói nổi tiếng của F.L.Wright, một KTS nổi danh của nước Mỹ, cây đại thụ của kiến trúc thế kỷ XX: “Một KTS có thể rất lớn trong một nhà cửa nhỏ xíu, và trái lại có thể rất nhỏ xíu trong một công trình lớn!”. Vậy thì, xin các nhà kiến trúc đáng kính của nước ta hãy bỏ ra một tẹo thông minh cao niên của mình để thiết kế những tòa tháp hướng đến NKT, để họ có yếu tố kiện được sống, được khiến cho việc thuận tiện, thoải mái mặc dù đó chỉ là những tòa tháp rất ốm nhưng cũng đủ rét mướt tình người và vui vẻ. Kiến trúc vì tập thể trong đó có NKT cần được phát huy và phải được trân trọng từ sự vồ cập của chính quyền các cấp, các Bộ lĩnh vực, của các Hội nghề nghiệp mà Hội Kiến trúc sư vn là tiên phong, góp phần làm cho cuộc sống của NKT được cải thiện hơn, kĩ năng tái hòa nhập số đông tốt hơn.
Và đó cũng là để cho xã hội tốt đẹp hơn và thế cuộc này đáng sống hơn!
Đọc thêm: Máy bơm nước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét