(Xây dựng) - Cả nghìn năm tinh khí nước Việt tụ về khiến cho nên một linh khí Thủ đô. Và, ở những thời gian lịch sử ngặt nghèo thì Thủ đô lại tán xạ sức mạnh ấy vào những người con Hà Nội trở lại mọi miền, có thể là nơi trước ông thân phụ họ đã ra đi.
Người Hà Nội xa Hà Nội với muôn ngàn lý do, dù họ có nằm xuống rừng hoang hay đi về với hoa trên ngực hoặc lỡ chân viễn xứ hoặc nín yên ổn thì âu cũng là bí quyết riêng của mỗi người trả giá cho Thủ đô khôn thiêng và hào hoa.
Câu chuyện một người Hà Nội nơi lưng đèo mây Tây Bắc mà hơn ba mươi năm trước tôi đã chạm chán. Người trai Thăng Long, học giữa mức độ trường Bách Nghệ thì Cách mệnh…
Đêm 04 tuần Ba đèo vắng lưng chừng mực núi, chiếc xe quân sự tôi bám theo hỏng máy giữa đới nóng đới lạnh tranh chấp. Gió khua triền cỏ tranh ướt hơi đêm sột soạt. Súng nổ vu vơ. Tiếng bò lạc thống thiết dưới khe núi u ám. Khói đạn, cao su cháy, sắt thép nung nóng bốc mùi chết chóc. Tin chiến sự chợp chờn ra-di-o.
Túp lều bạt dã chiến của mái nhà H’mông sơ tán giao tranh trong khoảng đỉnh sơn nguyên nào dạt xuống nương ngô liền ven lộ. Thân ngô khô chặt gốc bó từng túm dựng ngả ngọn tham gia nhau như hình người đang lom khom mò mẫm kiếm tìm thứ gì đó trong sương. Sau gộp đá có ánh lửa le lói lọt qua lỗ thủng mái bạt. Mùi khói lạ, thơm ngầy, gây phớt vị khét bảng lảng lan đến.
Đói, khát, chúng tôi ké tham gia lều bạt.
Két nước xe cũng cần được tiếp thêm.
Tấm che cửa lều tốc lên. Chúng tôi bối rối lùi lại.
Bị tấn công thức giữa đêm khuya bởi lích kích súng đạn, loáng loáng đèn bấm, hơn chục người trẻ già lo âu chen tụ sát nhau trong góc. Đứa bé xíu nhất khóc ré.
Gia đình H’mông không bạn nào nhân thức tiếng Kinh?!
Lùm lùm trong khoảng đống chăn sợi như giẻ rách trắng tàn tro cạnh bếp lửa, tiếng người ho húng hắng. Âm điệu H’mông ề à trấn an mọi người. Đứa trẻ nín khóc, thanh nữ bớt nhớn nhác.
Ngọn lửa bỗng bùng lên.
Đống giẻ đụng cựa, hất tung, một bộ xương, không là một nhân loại, xám đen đội mũ nồi chồm hỗm trên tấm chăn rách thông báo quở quang chúng tôi bằng tiếng Kinh, trách tại sao không biết tôn trọng và lịch sự với dân, đang đêm xồng xộc xông vào...
Tôi nhận ra chất giọng Hà Nội của những người trí thức cũ, trầm ấm, toát ra sự dịu dàng từ tốn. Giọng nói có sắc vị những cuốn sách cũ trong thư viện có ánh nến đêm Noel, có tiếng bè lũ piano ngân Nhà Hát lớn. Và tuồng như… cả phố hè lửa đạn 1946 trong gió heo may.
Đích là giọng của những người nam nhi, đội mũ lá, may ô trắng, từ Thủ đô lên kinh tế mới, buổi chăn bò thường tạt qua nhà tôi chuyện vãn với bố, uống cà phê hạt muồng. Những người gánh nước bước loạng quạng đưa nhì tay đỡ đòn gánh phía trước để khỏi đau vai.
Giọng của nữ phát thanh viên tiếng Anh trên ra-đi-ô Hà Nội đã khiến bao đấu sĩ Hoa Kỳ bất tuân thượng lệnh. Và giọng thiếu nữ vang lên trong thình lình nơi ngõ vắng, khiến cho ta đột trĩu nặng lòng dù không thấy mặt. Chẳng biết giọng nói người Thủ đô có định chuẩn nào không, nhưng có lẽ tôi cảm thu được mơ hồ những âm hưởng ấy là một.
Chết lặng! Sự chết yên ổn nổi gai. Bao quanh núi rừng còn chưa phai thuốc súng, giọng nói kia dù có trách cứ, nhưng với tôi nó lại là một tín hiệu ấm áp bỗng nhiên dội trong khoảng phía người H’mông đang nằm nghiêng co ro, tư thế như trong bụng mẹ, như một phép màu.
Trong ánh sáng bếp lửa, cúi xuống trước ông già râu tóc khỏa lấp hình hài của da khô và xương khô, tôi xin lỗi. Đôi mắt to sáng lên như khoan thủng màn đêm. Không giữ được ý nghĩ về ông, tôi đã buột miệng.
- Thưa, cụ chắc hẳn người gốc Thủ đô xiêu dạt...
- Người Thủ đô thì sao, người Thủ đô thì có gì hay ho đâu. Người ở đâu thì cũng vẫn có thể bị lưu lạc...
Bộ-xương-khô-già-mốc nghiêng người co chân bập miệng vào ống điếu giấu trong đống giẻ, rít. Cái miệng móm tóp thâm xoe xoe hắt ra vài vụn khói xanh ma mị. Mùi khói thoảng tất cả cứt gà sáp cháy. Vục xuống, cái miệng móm lại tợp lấy miệng ống điếu. Dường như không khí trong lều cũng bị ông già hít cạn... Bàn tay cóc cáy, móng dài khoằm bải hoải buông ống điếu. Thở hắt. Đống giẻ rũ rượi lặng. Lửa chấp chới quay về, giọng ông chợt vụt trong, rõ ràng sau khi nuốt ực ngụm khói còn phất phơ quanh miệng, chiêu nước sôi lục đục trực tiếp từ vòi ấm.
- Anh là người Hà Nội hay sao mà nhận vơ tham gia thế... Đúng, tôi người Thủ đô. Xã Hàm Long, có nhân thức không?
Chống gối đứng dậy ông lom khom đi quanh co lều. Sự khích động đột khiến ông đứng thẳng. Ông hỏi thăm những cây cơm nguội mọc vòng quanh khu vui chơi. Hỏi thăm đội kèn giáo xứ và dàn nhạc người Philippines có còn chơi ở Bờ Hồ.
Tôi ngớ ra, mãi mới nắm bắt trí nhớ ông đang khôi phục lại dòng chảy mấy mươi năm trước. Một cái phất tay ông quay lại phía người thân. Đôi câu tiếng H’mông chậm rì rì rãi. Những ánh mắt H’mông đen lánh nhìn ra. Bộ ấm trà da lươn Bát Tràng lốc cốc trong túi vải lanh được bày lên chiếc ghế mây tròn chân ngắn. Hương trà tuyết thanh dịu ùa dậy mâu thuẫn với mùi khói thuốc còn quanh quéo quất. Bát mèm mém rời rã như lương khô nhúng nước. Chảo rau cải nguội lõng bõng.
Không người nào có kĩ năng ăn trước những ánh mắt hau háu khảo sát. Chúng tôi ngồi phệt vây quành ấm trà. Ông già chuyên nước, sang chén động tác nhuần nhuyễn, khéo gọn, tinh xảo như đang bấm nốt trên cần bè cánh. Những ngón tay mang tâm thế của chủ sở hữu. Nước trà, chiết ra trong khoảng vòi ấm xoáy tròn xuống lòng chén thuốc nước xanh ngà như mật ong hoa anh túc pha loãng.
Nhấp môi, người tài xế nhát gan nhận đồng hương Hà Nội. Anh ở thị trấn Đội Cấn. Ông lắc đầu, ngày ông rời đô thành thì Hà Nội chưa có cái tên thị trấn đó. Nụ cười sáng khuôn mặt hốc hác xám, ông độc thoại: Ngày tí hon ta thường trèo hái quả cơm nguội dọc phố Hàm Long làm cho đạn bắn ống phụt. Chơi trò đuổi bắt trên các chuyến tàu điện quanh co bờ hồ Hoàn Kiếm. Phố cò trắng về ngủ đỗ trên ngọn cây sao. Thị trấn xanh bóng sấu mùa hè ve đái như mưa. Mỗi nửa đêm về sáng tàu hỏa trườn qua Long Biên về ga Hàng Cỏ nghe như mưa rào sôi réo cơn xa. Ba mươi ba năm ta hướng về Hà Nội trong tiếng khèn ngập ngụa sương mù và nồng bạn nào bột ngộ đồ, khói thuốc…
Đăm đăm ngắm người tài xế, bất thần ông lão níu lấy anh.
- Có lẽ nào khuôn mặt của trai Hà Nội hiện nay là đây sao. Cậu, cậu hãy nói, hãy hát câu gì cho ta nghe xem nào.
Người lái xe ngây gương mặt đen nhẻm.
Run rẩy buông anh ta, ông lả người. Tôi và ai đó định đưa tay ra. Nhưng ông gạt đi cất giọng đọc cộng minh sâu, rộng.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Tuổi hồng hương cốm mới.
Lối mòn thơm mãi dấu Em đi.
Gió thổi mùa Thu vào Thủ đô!
Ta nhớ sáng chủ nhật đi trên lòng đường Hàng Đào giữa dòng chảy màu sắc Thủ đô. Trong hương thơm Thủ đô, có một mùi hương khác lạ đột len đến: Trước mắt phụ nữ lụa xanh lá, áo kiểu Le Mur cũ kĩ khoét hình trái tim bước vào nhà hàng Nouveautés, gã trực cửa mặc đồ tây, tóc mượt, nhún mình thành lập và giữ cánh cửa kính mời nàng tham gia. Nàng là con gái rượu ông Docteur người hàng phố với ta.
Ánh sáng đèn qua khuông cửa tạo dựng, đưa hương thơm trong khoảng người nàng và những sóng nếp áo dài lụa xanh lá tới ngây ngất cho ta.
Nàng có bàn tay biểu cảm, ta thường mê ngắm. Biết ta mê tay đẹp, hễ thấy khách hàng nào có tay đẹp hơn tay mình, nàng cũng ước ao: Giá gì em có bàn tay đó cho anh...
Ta theo Việt Minh lên rừng, nàng chuẩn bị đôi dép cao su con hổ, xà phòng Evening in Shanggai, bàn chải răng Hong Kong, kem răng Gibbs. Và những tệp giấy pơ-luya màu hồng ướp hương huê hồng.
Ông lão chợt cúi đầu, mái tóc bạc xõa rượi như mớ sợi lanh phơi nắng trùm bí mật mặt. Thở dốc. Bà hiền thê len lén tới bên đỡ lưng, ông lão lắc người. Đâu đó trong bóng tối hiện lên cây đồng chí măng-đô-lin cũ rích dài.
Chệch doãi, ông cầm cây đồng đội. Màu đồng đội đã phai, nhưng mọi cụ thể còn nguyên vẹn. Tình ca, tráng ca đao binh, nhạc điệu dân ca Pháp, Ý ríu ran, nhí nhảnh lúc hát cùng bạn bè, lúc ư ư a a hư không hòa âm, ông vụt trở thành cao lớn, trong ánh sáng bếp lửa đang tàn.
Có sức mạnh yêu thuật nào đấy trong mỗi đường gân thớ làm thịt teo quắt mới có thể dựng dậy được cơ thể xô lệch hình hài.
Xoay lao đao gục xuống đống chăn, lại thở dốc, tưởng lép như chiếc bóng bay bị chọc thủng, thì ông lại lồm cồm bò dậy. Lòm khòm với cây khèn bè thương cảm ôm ở lòng, bước nhảy đầm giật bên phải, giật lắc bên trái, khép vòng nói quanh nói quẩn bếp lửa. Nhạc điệu khèn đón khách ọ ẹ ngân lên giây phút rồi tắt lịm giữa ống thoát thanh.
Người thê thiếp lại chạy ra, lần này ông để yên giữ cho ông đứng vững. Ông nghẹo đầu hát bài ca H’mông. Bài ca người con trai đi cày trên nương đá. Rồi con bò gặm cỏ… Ông cũng không kéo nổi được bài ca đi tới đích. Nó tắt dần nơi vòm họng…
Tóa mồ hôi, trắng sáp, ông ngồi bất động. Bếp lửa tiếp thêm củi là những thân ngô khô lồng phồng. Có lẽ là lần tiếp củi cuối cùng trước khi trời sáng. Ống điếu lại sè sè cháy. Nhựa thuốc phiện ngậy, gây quánh đặc gian lều. Lại tu nước sôi trong khoảng vòi. Lại những mẩu độc thoại. Chúng tôi không ai dám đặt câu hỏi. Kho ký ức đã được khói thuốc phiện khơi dậy, ông nhắc lại cho bản thân rộng rãi hơn là để trải lòng với khách.
Hơn ba mươi năm trước, cuộc nội chiến chống thực dân Pháp ngoặt bước sang tình thế Việt Minh có thể chủ động. Để chuẩn bị cho chiến dịch biên thuỳ, công ty đã lựa chọn những người lính tự nguyện tạm trút quân phục thâm nhập miền sơn nguyên làm dân vận. Và anh lính người Thủ đô với cây măng-đô-lin trên ba lô, luồn rừng núi về phiên bản H’mông tận cùng cột mốc.
Để có được lòng tin với dân phiên bản, anh đã ba cùng tập hút thuốc phiện, học cày bò nương đá, học thổi khèn. Cắt tiết gà trống cúng ma kiếm được họ Hạng thay họ phụ vương. Cho đến ngày kể được tên hơn trăm bài khèn: Khèn gọi người ấy, khèn dẫn ma mùa lúa mới, khèn khai hội Xuân… thì rèn dao, dao sắc, thì đúc lưỡi cày, cày bén, dây lưng băng vải quanh co cạp quần không tụt, ăn được mèm mén thìa gỗ, uống rượu ngô bằng bát thì anh cưới phi tần.
Đám cưới của anh với cô gái H’mông họ Hạng có tiếng tập thể măng-đô-lin, say vật rượu ngô và những bài khèn. Đêm động phòng, đích thân bố phi tần tiêm thuốc phiện cho rể. Sáng hôm sau khi cô dâu thức giấc thức, sờ không thấy chú rể, hấp hoảng đi sắm. Chạy ra đầu dốc núi cô dâu nhìn thấy chú rể đang ấp ủ gốc cây sa mu nhìn về xuôi nước mắt lăn dài.
Rồi cũng đến ngày anh có thể giải thích làu làu cho lớp trẻ H’mông các câu chuyện cổ hủ tích, thần thoại, phương ngôn, thành ngữ, tục phụng dưỡng Cha ông bốn đời: Thần tài, thần thuốc, thần thổ công...
Lễ hội Gầu Tào mùa Xuân trên nương ngô vừa bẻ bắp đầu phiên bản, bộ cánh vải lanh đen, vòng vía lắc cắc, anh trình diễn cả hai thiên trường ca bất hủ được người H’mông truyền khẩu: Trường thán ca và Trường hỷ ca. Chất giọng nam trung của anh khi cất lên các làn điệu dân ca: Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát mồ côi, Tình khúc giao duyên... Không ít cô gái chưa chồng cắn dập cả môi khi nghe chàng rể nhà họ Hạng hát...
Chiến dịch biên thuỳ chiến thắng.
Tây Bắc phóng thích, mấy đứa con đương trứng gà trứng vịt bám mẹ, tâm lực anh cũng cạn không còn đủ theo đoàn quân phóng thích về xuôi. Nhiệm vụ mới của anh là giúp người H’mông bình ổn dài lâu cuộc sống mới. Miền sơn nguyên trì níu anh bằng ái tình sơ khai của nó.
Niềm vui móm mém, tay phải gãi tay trái, lớp da khô bung ra như cám, ông lão nói.
- Chắc anh sống chưa đủ để thấm một vấn đề đơn giản: Không chỉ sung sướng mới có sức lưu giữ một vài phận, mà sự khốn không dễ dàng còn có sức mạnh như một chiếc khóa, một ngôi nhà không có lối ra...
Nhìn người con trai tàn kiệt giữa lốc nhốc bà xã loài người H’mông, tôi chẳng thể tưởng tượng hơn ba mươi năm trước ông là một trong những đội viên cảm tử quân rời Thủ đô cuối cùng qua ngả cầu Long Biên. Ánh dư quang hào hoa chỉ còn ẩn tàng trong tiếng đồng minh măng-đô-lin và giọng nói định chuẩn sang trọng đất Tràng An.
Ông chỉ là một trong vô số người Thủ đô đã xa Thủ đô. Còn bao lăm người Hà Nội nằm gục bên các con phố tàu Nam tiến, nằm dọc Trường Sơn hoặc lẫn tan tham gia sóng biển Đông. Tha ma từ Bắc tham gia Nam, ở đâu xảy ra những cuộc chiến lớn thì số lượng bia tuyển mộ liệt sĩ Hà Nội con số đếm cũng rợn người...
Thân phận những kỹ sư, thầy giáo, học sinh, chưng sĩ, thanh niên xung phong cùng lớp lớp tiểu thương sau 1954, sau 1975 đành lòng bỏ lại một Thủ đô an toàn, mang hào hoa quý phái đối đầu với dấu tích bom mìn, muỗi vắt, đá núi, rừng hoang...
Rạng ngày, xe vận tải gầm gào nổ máy. Chiếc can nước cuối trong lều cũng đủ tràn két nước. Ông lão bắt người thân đỡ lên đứng bên cửa buồng lái chia tay đồng hương Thủ đô. Quay sang với tôi, ông thầm thì một địa chỉ phố cũ kĩ, và tên người con gái áo Le Mur lụa xanh.
Nhún vai, ông nói mái ấm cắm lều ở đây cho tới khi nào chiến sự lắng xuống hẳn sẽ đi về phiên bản cũ. Hỏi cái tên phiên bản ấy ở đâu thì ông chỉ vu vơ về phía núi nham nhở. Sương mù.
Bỗng dưng tôi bận rộn nợ ông già H’mông, một-người-trai-Hà-Nội ân nghĩa nào đó không thể trả. Đã có rất nhiều vì sao sau mỗi câu hỏi. Nhưng số mệnh của những người con Thủ đô ở xa Thủ đô cách này hay cách thức khác cũng đã an bài. Địa chỉ phố cổ, tên người đàn bà áo Le Mur lụa xanh cũng nhòa nếp nhớ. Dù thi thoảng nghĩ tới vướng chút ngùi ngùi...
Rồi thình lình có cuộc gặp nhà văn già Hà Nội với tôi nơi quán nước đầu ngõ phố cũ rích. Mái quán ghếch lên đầu tường rào gang. Ba chiếc gỗ chân ngắn. Ba chiếc ghế nhựa cao chân. Quán chuyên trà Thái, kẹo lạc, rượu trắng, thuốc lào, lạc rang. Và cốm Vòng. Cốm mới nức hương Thu…
Chủ quán là bà cụ nhân từ tóc dài trắng bông vẫn để buông cài kẹp ngang lưng. Mùi nước hoa cổ đại nào đó khói sương thoáng thấy, thoáng không. Vẻ đẹp tuổi già khoan thai nỗi mưu sinh thanh sạch. Nhà văn cho nhân thức bà là con ông bác bỏ sĩ, người đẹp xưa chuyên mặc áo Le Mur lụa xanh, trải hai đời chồng không con. Từng là chỉnh sửa viên xuất bản, bà sống một bản thân mình trong căn phòng áp mái vốn để chứa đồ còn sót lại của ngôi vi la cũ ngày xưa...
Yếu tố vừa nhân thức nhói lên trong tôi về một đột nhiên. Cũng bí quyết chuyên nước, rót nước ấy. Đặc biệt bàn tay mở gói cốm, tiếp cốm ra chiếc đĩa sành, nhấc nút lá chuối, nghiêng chai rượu trắng vào miệng chén sứ hạt mít cứ đơn giản mà kiêu kỳ gián đoạn...
Có mối dây nào không giữa người Hà Nội chủ quán nước với người Thủ đô như xác-ướp, giơ bàn tay khô quắt cào vào sương mù tiễn chúng tôi xuống núi. Có thể họ đã từng là trai tài gái sắc của nhau. Và cũng có khi chẳng là gì cả...
Phút giây trong tôi xóa nhòa hình ảnh ông già co ro trong đống chăn rách, mà là thanh niên kỹ sư trường Bách Nghệ ấp ôm cây bằng hữu măng-đô-lin nhún bước ngược chiều kim đồng hồ giữa vòng tròn các cô gái H’mông vung khăn tay dancing múa trong ngày hội Gàu Tào ở nương ngô vừa thu hái, dưới chân núi đá cao dựng đứng xanh vời.
Tham khảo thêm: Máy bơm ly tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét